Ba kịch bản phát triển kinh tế Việt Nam và điều kiện để trở thành nước thu nhập cao trước năm 2045

admindvlipt
04/10/2025
0

Việt Nam trước ngưỡng cửa nước thu nhập cao

Theo Giáo sư Trần Văn Thọ (Đại học Waseda, Nhật Bản), Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn để trở thành nước có thu nhập cao vào năm 2045, nhân dịp kỷ niệm 100 năm thành lập nước. Dù theo kịch bản nào – khả thi, khó thực hiện hay trung bình – triển vọng này đều được đánh giá là sáng sủa.

GS. Thọ nhấn mạnh: “Theo tính toán, dù ở kịch bản nào, khả thi hay khó thực hiện, thì đến năm 2045, Việt Nam vẫn sẽ đạt mục tiêu trở thành nước có thu nhập cao”.

Ba kịch bản tăng trưởng kinh tế Việt Nam

Giáo sư Trần Văn Thọ xây dựng ba kịch bản phát triển kinh tế trong giai đoạn tới:

  • Kịch bản 1 (khó thực hiện):

    • Giai đoạn 2026 – 2035: GDP tăng bình quân 10%/năm, dân số tăng 0,5%.

    • Giai đoạn 2036 – 2050: GDP tăng 7%/năm, dân số tăng 0,2%.

    • Việt Nam đạt ngưỡng thu nhập cao vào năm 2039.

  • Kịch bản 2 (khả thi hơn):

    • Giai đoạn 2026 – 2030: GDP tăng bình quân 7,5%/năm.

    • Giai đoạn 2031 – 2040: GDP tăng bình quân 10%/năm.

    • Việt Nam đạt nước thu nhập cao vào năm 2039.

  • Kịch bản 3 (dễ xảy ra nhất):

    • Giai đoạn 2026 – 2035: GDP tăng trung bình 8,5%/năm.

    • Giai đoạn 2036 – 2045: GDP tăng bình quân 5,5%/năm.

    • Việt Nam đạt ngưỡng thu nhập cao vào năm 2044.

Như vậy, theo phân tích của ông, Việt Nam có cơ hội trở thành nước thu nhập cao trước năm 2045, tương tự như Nhật Bản (1969), Hàn Quốc (1995) và Trung Quốc dự kiến (2027).

Thách thức “bẫy thu nhập trung bình”

Tuy nhiên, từ nước thu nhập trung bình thấp (2009) lên thu nhập cao là chặng đường gian nan. Nhiều quốc gia rơi vào “bẫy thu nhập trung bình” vì năng suất lao động tăng chậm.

Trong 35 năm qua, tăng trưởng GDP của Việt Nam đạt trung bình 6,5%/năm, thu nhập bình quân đầu người tăng 5%/năm. Tuy là thành tựu đáng kể, nhưng vẫn chưa ấn tượng như Nhật Bản, Hàn Quốc hay Trung Quốc ở cùng giai đoạn phát triển.

  • Giai đoạn 2011 – 2020: năng suất lao động Việt Nam tăng 5,29%/năm.

  • Giai đoạn 2016 – 2020: tăng 5,8%/năm, cao hơn mục tiêu 5%.

  • Gần đây, năng suất có cải thiện nhưng vẫn thấp hơn nhiều nước phát triển trong khu vực.

Vì sao năng suất lao động của Việt Nam còn thấp?

Giáo sư Trần Văn Thọ chỉ ra một số nguyên nhân chính:

  1. Lao động phi chính thức chiếm trên 64% tổng lao động, thiếu kỹ năng và chưa được đào tạo bài bản.

  2. Công nghiệp chủ yếu gia công, lắp ráp, giá trị gia tăng thấp; càng xuất khẩu nhiều thì càng nhập khẩu nguyên liệu trung gian.

  3. Kinh tế tư nhân yếu, phần lớn là doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và hộ cá thể (hơn 5 triệu đơn vị, 9 triệu lao động).

Chính sách nâng cao năng suất lao động

Để cải thiện, Việt Nam đã ban hành nhiều nghị quyết quan trọng:

  • Nghị quyết 50-NQ/TW (2019): Định hướng thu hút FDI chất lượng cao, công nghệ hiện đại, phát triển bền vững.

  • Nghị quyết 68-NQ/TW: Phát triển kinh tế tư nhân, đặt mục tiêu đến 2030 năng suất lao động khu vực này tăng 8,5 – 9,5%/năm.

Dân số già và thách thức “chưa giàu đã già”

Một trở ngại lớn khác là tốc độ già hóa dân số. Hiện tại, tỷ lệ người trên 65 tuổi ở Việt Nam đã đạt 10%, dự báo lên 15% vào năm 2039.

Trong khi đó, Nhật Bản khi đạt nước thu nhập cao (1969) mới chỉ có 7% dân số trên 65 tuổi. Điều này khiến Việt Nam phải duy trì tăng trưởng cao liên tục trong 20 năm để tránh rơi vào tình trạng “chưa giàu đã già”.

Mục tiêu kép: Tăng trưởng nhanh và phát triển bền vững

Theo GS. Thọ, tăng trưởng GDP cao chỉ là một trong nhiều mục tiêu. Việt Nam cần đồng thời:

  • Giữ cân bằng giữa phát triển kinh tế – xã hội – môi trường.

  • Bảo đảm đời sống người dân được nâng cao thực chất.

  • Khuyến khích kinh tế tuần hoàn, công nghệ xanh, giảm tác động đến môi trường.

Tăng trưởng phải vì cuộc sống và hạnh phúc của nhân dân” – đây là kim chỉ nam cho mô hình phát triển kinh tế Việt Nam.

Không để ai bị bỏ lại phía sau

Khác với nhiều quốc gia có tăng trưởng nhanh nhưng bất bình đẳng cao, Việt Nam lựa chọn con đường phát triển bao trùm.

  • Nghị quyết 71-NQ/TW: Đột phá giáo dục, miễn và hỗ trợ học phí cho hơn 23,2 triệu học sinh từ mầm non đến hết phổ thông từ năm học 2025 – 2026.

  • Nghị quyết 72-NQ/TW: Đột phá y tế, từ 2026 người dân được khám sức khỏe miễn phí hằng năm, hướng tới miễn viện phí cơ bản vào 2030.

Những chính sách này cho thấy giáo dục và y tế không chỉ là phúc lợi xã hội mà còn là nền tảng của phát triển bền vững, bảo đảm Việt Nam tiến lên nước thu nhập cao nhưng không đánh đổi công bằng xã hội.


Kết luận

Với ba kịch bản phát triển kinh tế, dù khả thi hay khó khăn, Việt Nam vẫn có nhiều cơ sở để đạt mục tiêu trở thành nước thu nhập cao trước năm 2045. Tuy nhiên, để làm được, đất nước cần:

  • Duy trì tăng trưởng GDP cao trong nhiều thập kỷ.

  • Nâng cao năng suất lao động.

  • Tháo gỡ nút thắt của khu vực tư nhân.

  • Giải quyết thách thức già hóa dân số.

  • Phát triển hài hòa, bền vững, không bỏ ai lại phía sau.

Việt Nam đang đi trên một con đường đầy cơ hội nhưng cũng nhiều thách thức. Sự quyết tâm trong cải cách, cùng với chính sách hướng tới con người, sẽ là chìa khóa để đất nước hiện thực hóa giấc mơ trở thành quốc gia thu nhập cao vào giữa thế kỷ XXI.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.